Đền Thánh Tứ xã Khánh Mậu


PHẦN I. TÊN GỌI CỦA DI TÍCH
Di tích có tên gọi là đền Thánh Tứ, vì đây là nơi thờ tướng nhà Mạc Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi.
Theo các bậc cao niên, nhân dân địa phương kiêng gọi tên nhà Thánh nên đã lấy chức vụ để đặt tên cho đền.
PHẦN II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ VÀ ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH
1. Địa điểm phân bố:
Đền Thánh Tứ nằm giữa thôn 9, về phía Nam UBND xã Khánh Mậu, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Đền được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng, rộng 1.200m2, bốn phía của đền giáp với khu dân cư.
Thời Hồng Bàng (2809 – 258TCN), vùng đất Yên Khánh nằm trong bộ Giao Chỉ, sau thuộc phủ Trường Yên.
Thời Trần (1224 – 1400), vùng này có tên gọi là huyện Yên Ninh. Thời Lê Trung Hưng (1593) về sau đổi là huyện Yên Khang.
Thời Nguyễn, năm Gia Long thứ 2 (1803) đổi tên là huyện Yên Khánh, thuộc phủ Trường Yên.
Năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) đổi thành phủ Yên Khánh.
Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) huyện Yên Khánh thuộc đạo Ninh Bình, đổi thành trấn Ninh Bình, rồi tỉnh Ninh Bình vào năm 1831.
Như vậy địa danh Yên Khánh có từ năm 1803 cho đến ngày nay.
Từ khi hình thành đến nay, huyện Yên Khánh có nhiều sự thay đổi về địa giới hành chính. Trong tình trạng đó, các xã cũng có sự biến động. Xã Khánh Mậu ngày
 
nay, từ tháng 6 năm 1949 về trước gọi là xã Duyên Mậu, thuộc huyện Yên Khánh. Do đó, vùng đất có di tích qua các thời cũng có tên gọi khác nhau.
Đầu thế kỷ XIX, di tích thuộc thôn Duyên Mậu, tổng Liên Hải. Năm 1887, di tích thuộc thôn Duyên Mậu, tổng Duyên Mậu.
Năm 1946 đến 1948, di tích thuộc thôn Duyên Mậu, xã Duyên Mậu. Năm 1949, di tích thuộc thôn Duyên Mậu, xã Khánh Hội.
Năm 1956, di tích thuộc thôn Duyên Mậu, xã Khánh Mậu.
Năm 1976, 9 xã phía Đông Nam của huyện Yên Khánh sáp nhập vào huyện Kim Sơn, di tích thuộc thôn 9, xã Khánh Mậu, huyện Kim Sơn.
Năm 1994, huyện Yên Khánh được tái lập. Từ đó đến nay di tích thuộc thôn 9, xã Khánh Mậu, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình1.
2. Đường đi đến di tích
Du khách tới thăm đền Thánh Tứ có thể đi theo tuyến đường bộ và đường thủy đều rất thuận tiện.
- Đường bộ: Từ thị xã Ninh Bình, theo đường quốc lộ số 10 (đường đi Ninh Bình - Phát Diệm) 8,5km đến ngã ba Thông, rẽ trái theo trục đường 58 đi 9,5km đến cầu Xanh, từ đây rẽ phải lên đường Hồng Đức 2km là đến Cầu Đầm. Tiếp tục rẽ phải lên đường Hồng Đức 2km là tới thôn 9, nơi có di tích.
Hoặc du khách có thể đi theo tuyến đường bộ thứ 2: từ thị xã Ninh Bình đi theo Quốc lộ số 10 là 8,5km đến ngã ba Thông, rẽ tay phải (tuyến đường đi Kim Sơn – Phát Diệm) 14km đến ngã tư Phúc Nhạc, từ đây rẽ tay trái theo đường Hồng Đức 3km là tới di tích.
- Đường thủy: Từ bến Non Nước (thị xã Ninh Bình) xuôi theo dòng sông Đáy khoảng 9km đến bến Độc Bộ (xã Khánh Tiên). Từ đây đi tiếp 3km đến bến đò Xanh (xã Khánh Thiện). Du khách lên bến và đi tiếp 3km đường bộ là tới di tích.
PHẦN III. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
1. Di tích với nhân vật lịch sử Phạm Tử Nghi.
Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi là một tướng tài của triều Mạc, ông người Trung Hành, huyện An Dương, tỉnh Hải Dương, nay thuộc xã Đằng Lâm, huyện An Hải, thành phố Hải Phòng2.

1 . Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Khánh – NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội 2003, Tr 9, Tr 505 – 512.
2 . Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục – NXB Giáo dục 1998, tr 128.
 
Theo thần phả hiện còn lưu giữ tại đền cho biết ông là một người văn võ song toàn. Có lần, ông đắp một con lũy men sông ở quê dài khoảng hơn một dặm và thường cắp trượng đi lại tập đâm. Con lũy đất vì thế mà sạt lở.
Một ngày, ông đến thành Thăng Long, thấy quân của triều đình có đến mấy trăm người kéo một chiếc thuyền rồng mà vẫn không động đậy, ông cười mà nói:
Việc bé cỏn con như thế cần gì phải huy động đến ba bốn trăm người?
Quân nhà vua nghe nói liền bắt đến hỏi tội. Ông nói hãy đem mấy chục cây gỗ tròn làm con lăn, cứ thế mà cho hạ thủy. Ông chỉ một tay đẩy nhẹ là thuyền chạy băng băng xuống nước. Từ đấy tiếng tăm của ông lừng lẫy kinh thành.
Vua muốn thử tài của ông bèn bày trận trước triều đình, bên phải 1.500 voi, bên trái 1.500 chiến mã, thế rồi cho các võ quan tập trận. Quân bên trái đại bại, chạy trốn. Vua sai ông đến cứu, ông nhận mệnh, tay cầm mâu sắt dài 3 thước, xông vào đám voi chiến, quân tượng mã theo sau thế là bên trái lại thắng, bên phải lại thua. Vua thất kinh, lệnh cho thu quân. Sau khi thu quân mới thấy 3 voi chiến bị chết. Mọi người thất thế đều cho ông là bậc kỳ tài nên phong ông là Tứ Dương hầu Nam Dương nguyên súy.
Bấy giờ, vua Minh đem quân xâm lược nước ta. Vua quan triều đình thấy thế quân Minh mạnh như chẻ tre, bàn định sẽ mở cửa thành nộp giáo quy hàng để khỏi bị chu diệt. Nhưng ông vẫn một mực xin đánh. Vua bằng lòng, phong ông làm Thái úy kiêm Đại tướng quân thủy bộ.
Sau khi thụ phong, ông liền đem quân đi đánh giặc. Khi còn cách trại giặc 50 dặm, ông cho đóng doanh trại, sai một viên tướng đêm 500 quân đến lừa giặc. Đại tướng giặc tưởng là ông dẫn quân đến, liền đem quân ra quyết chiến một phen. Hai bên giao chiến độ 3 hiệp, quân ta giả thua, bỏ chạy.
Ngay đêm ấy, quân giặc kéo đến trại của ta để thu chiến lợi phẩm. Bỗng có tiếng nổ ầm, ông đánh thuốc ra, quân ta đánh từ ngoài vào. Giặc trở tay không kịp, đều bị giết chết.
Thừa thắng ông đưa quân tiến lên phía Bắc và đến Thiều Châu. Thiều Châu đóng chặt cửa thành cố thủ. Ông đánh và tìm mọi kế để dụ nhưng giặc không dám ra. Ông bày dàn cầu vũ, trời đổ mưa 5 ngày đêm, trong thành nước dâng cao 5 thước. Quân ta thừa kế phá thành, giặc chết vô số.
Quân ta lại kéo đến động Đình Hồ. Bấy giờ, tiết mùa đông, gió bắc thổi ào ào. Thuyền không thể vượt hồ được. Ông lập đàn cầu đảo, tức thì gió nam thổi lên.
 
Thuyền quân ta tiến như bay. Quân giặc đóng đồn ở phía bờ Bắc thấy vậy rất kinh sợ, đem quân chạy chốn.
Thừa cơ quân ta đánh về Quảng Đông. Nghe tin ông kéo đến, chúng chia số quân làm đôi, một nửa ở trong thành, một nửa ở ngoài thành cố thủ. Ông một mình một ngựa tả xung hữu đột vào đám giặc. Quân giặc chết không biết bao nhiêu mà kể.
Sau đó ông đem quân đánh vào thành. Nhân việc chém đầu 500 quân giặc cứu viện, ông tương kế tựu kế cho quân ta cải trang thành quân giặc đi theo chúng vào thành, bản thân ông cũng lẫn trong số quân ấy.
Sau khi vào thành, ông phi ngựa giết chết hai tướng giặc, đoạt cờ xí tướng phù của chúng, rồi quát to giặc đã vào thành, sao các tướng không mau mau đánh giặc. Sĩ tốt trong thành đang đêm không biết đâu là ta, đâu là giặc, đâm chém hỗn loạn, giẫm đạp lên nhau, thây chất thành đống. Quân ta chiến thắng thu được thành Quảng Đông.
Ông liền đưa quân đánh thành Quảng Tây. Quân ta vừa tới, quân giặc đã mở cổng thành xin đầu hàng. Ông vào thành khao thưởng quân sĩ, xong bèn bàn định kế hoạch tiến đánh Biện Kinh. Vua Minh ở Biện Kinh rất đỗi hoảng sợ, liền triệu tập triều thần bàn bạc phòng ngủ.
Bấy giờ, một viên quan nhỏ biết Phạm tướng quân rất có hiếu với mẹ, bèn hiến kế bắt mẹ của ông về Biện Kinh, tất ông sẽ đến đầu hàng. Vua Minh bằng lòng thực hiện theo mưu kế.
Quả nhiên, vì mẫu tử tình thâm, ông đã đến Biện Kinh thụ mệnh để trọn hiếu. Ông thảo một tờ tấu gửi cho vua Nam triều, một tờ biểu gửi vua Minh xin cho mẹ được về nước, rồi ông tự tử. Bỗng đâu mây đen kéo đến, mua to gió lớn. Người Biện Kinh bị dịch chết nhiều. Vua Minh kinh hoàng và biết ông đã hiển Thánh, bèn bày lễ cầu đảo, thấy ông đứng trên vầng mây tía nói: bọn ngươi muốn sống hãy đem mẹ ta về nước, rồi sửa cỗ quan vàng, cỗ quách đồng thả xuống sông để ta trôi về nước. Vua Minh làm y lời. Quan tài trôi đúng về bờ sông huyện An Dương, tỉnh Hải Dương. Đang đêm dân làng hò nhau mai táng và lập đền thờ ông ở ngay bên sông. Đền thờ ông nay vẫn rất thiêng, các nơi khác trên bờ sông cũng lập đền thờ ông.
Ngày nay, nhân dân thôn 9 còn lưu truyền rằng: phần lớn diến tích đất đai Khánh Mậu trước đây là biển cả, người dân cần cù lao động nhưng vẫn phải sống trong cảnh bần cùng do thường xuyên bị nạn lụt hoành hành.
Có lần đi qua vùng đất này, thấu hiểu được sự khổ cực của người nông dân, Phạm Tử Nghi đã cùng họ quai đê lấn biển để ngăn mặn, lấy đất cho dân cày cấy. Lúc đầu, các làng mới có ở ven đê Hồng Đức, sau đó cứ theo chân sóng tiến dần về phía
 
biển. Và cứ như thế làng, xã ngày càng phát triển, dân cư đông đúc, trù phú như ngày nay.
Khi ông mất, để tỏ lòng biết ơn người đã có công giúp dân dựng làng giữ nước, nhân dân đã lập đền thờ ông.
2. Di tích với thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 – 1975):
Sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, hòa bình lập lại ở miền Bắc, cũng như nhân dân cả nước, nhân dân huyện Yên Khánh, ai nấy đều hân hoan phấn khởi. Nhưng hậu quả do chiến tranh để lại hết sức nặng nề: nhà cửa bị đốt phá, đường xá bị cày xới, đồng ruộng bị bỏ hoang, đời sống của nhân dân thiếu thốn.
Kẻ địch tuy đã thua nhưng chưa từ bỏ âm mưu tiếp tục chống phá ta, xã Khánh Mậu vẫn là một trong những điểm nóng về sự chống phá cách mạng của bọn phản động.
Để ổn định tình hình, khắc phục khó khăn, tháng 7 năm 1954, Chi bộ Đảng họp tại đền Thánh Tứ1 đề ra một số nhiệm vụ trước mắt.
Với đường lối đúng đắn và sự chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ, tình hình chính trị đã dần được ổn định. Như vậy, thắng lợi to lớn của quân và dân xã Khánh Mậu nói riêng, huyện Yên Khánh nói chung trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có sự đóng góp của cơ sở đền Thánh Tứ.
PHẦN IV. KHẢO TẢ DI TÍCH:
Tương truyền, xưa kia phía trước của đền có ao khá rộng, xa xa là gò đất hình cô tiên hướng vào đền, mà nhân dân thường lưu truyền câu ca rằng:
“Ồn rằng Hạ Vĩ có tiên
Hai tay nằm sấp bái đền Đức ông”
Ngày nay, đền Thánh Tứ tọa lạc trên khu đất bằng phẳng, có diện tích 814m2. cửa đền quay hướng Đông Nam, trông ra hồ bán nguyệt với quan niệm đó là nơi tụ thủy, tụ phúc.
Để bảo vệ di tích, xung quanh đền có tường bao cao khoảng 1,5m.
Đền có kiến trúc kiểu Tiền nhất (─) Hậu đinh (┴) với 3 tòa: Tiền bái, Trung đường và Hậu cung.
Nghi môn đền quay hướng Đông. Cửa chính cao 4,3m, rộng 2,3m, được xây theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Trên nóc mái đắp nổi lưỡng long chầu nguyệt. Hai bên cổng chính là hai cổng phụ thấp hơn, xây kiểu cuốn vòm (nhưng hiện nay hai
1 . Lịch sử Đảng bộ xã Khánh Mậu tập 1 (1954 – 1975) – XB năm 1998, tr 104.
 
cổng này đang tạm xây bít lại). Phía ngoài và trong Nghi môn đều đắp nổi câu đối viết bằng chữ Hán nói về sự linh ứng của Thánh.
Hồ bán nguyệt có diện tích 70m2, xung quanh hồ xây tường hoa. Từ đây, qua một khoảng sân hình chữ nhật được trạt xi măng, có chiều dài 15m, chiều rộng 13m là tới tòa Tiền bái.
Chất liệu chính của tòa nhà là vôi vữa, nhưng được trang trí đẹp, hài hòa nên vẫn giữ được nét tôn nghiêm. Hai bên hiên tiền bái là hai cột đồng trụ. Phần giữa hiên đắp nổi hai con rồng uốn lượn chầu mặt nguyệt.
Tòa này 5 gian, lợp ngói nam, nền lát gạch đỏ, chiều dài lòng nhà 10,5m, chiều rộng 3,5m, với hai bộ vì xây kiểu vì ván mê.
Gian giữa đặ nhang án hình hộp chữ nhật khá lớn với chiều cao 190cm, chiều dài 123cm, chiều roongj106cm. Mặt trước của nhang án bổ ô, trong các ô trang trí rồng, mặt nguyệt, hoa lá với nét chạm khoáng đạt và rất sinh động. Trên nhang án đặt một bát hương thờ công đồng bằng chất liệu đá.
Để thiêng hóa vị thánh, đồ chấp kịch được tạc bằng gỗ, cắm vào giá, chống thẳng, đặt hai bên nhang án. Phía trước là hai con hạc gôc đứng trên lưng rùa chầu vào giữa.
Từ Tiền bái vào tòa Trung đường cũng bằng 3 cửa (1 cửa chính, 2 cửa phụ) tương ứng với 3 cửa vào của Tiền bái.
Tòa Trung đường có chiều dài 7,3m, chiều rộng 3,8m, mái lợp ngói nam, nền lát gạch hoa.
Hệ thống mái được liên kết bởi hai bộ vì bằng gỗ có kết cấu đơn giản, được nâng đỡ trên hai cột tròn xây khá lớn, có đường kính 104cm. Hoành, mè vuông.
Gian giữa, trên nhang án đặt bát hương thờ đức Thánh và bộ đao được mang tư cách là vũ khí của nhà Thánh.
Hai bên là hai ông phỗng trong tư thế chân quỳ, tay dâng hương. Phía trên là bức đại tự với bốn chữ Hán “Lưỡng quốc hiển Thánh” (tạm dịch “làm Thánh của hai nước”) và có câu đối có niên đại Bảo Đại năm thứ 13 (1943) được đặt trên cân xứng nhau qua nhang án.
Ngang hàng với nhang án, ở hai gian bên là ban thờ quan văn, quan võ được xây theo dạng hình hộp chữ nhật, trên đặt bát hương bằng chất liệu gốm. Phía trước ban thờ trang trí hai con hạc tô vẽ màu đang chầu mặt nguyệt.
Hậu cung hai gian dọc là phần kéo dài của gian giữa tòa Trung đường, chiều dài 3,5m, chiều rộng 3,1m.
 
Gian phía ngoài, trên ban thờ đặt bộ Tam sự bằng đồng khá đẹp (hai cây đèn, một đỉnh đồng).
Gian trong, để tăng thêm ý nghĩa thâm nghiêm, trọng tâm của Hậu cung là tượng Đức Thánh trong khám thờ. Tượng với kích thước vừa phải, ngồi ngay ngắn trên ngai, phục trang theo lối của một viên quan, đầu đội mũ cánh chuồn, mặc áo thụng dài, chân buông trên bệ, tay đặt trên gối.
Nhìn chung bố cục toàn cảnh của di tích với những hình khối kiến trúc tuy không lớn nhưng hài hòa trong từng bộ phận công trình, phù hợp với cách bài trí.
PHẦN V. LOẠI HÌNH DI TÍCH
Căn cứ vào kiến trúc nội, ngoại thất, đồ thờ tự và sau khi nghiên cứu sự kiện nhân vật lịch sử liên quan đến di tích. Chúng tôi nhận thấy đền thờ Thánh Tứ thuộc loại hình di tích lịch sử.
PHẦN VI. CÁC DI VẬT TRONG DI TÍCH
Di tích hiện còn lưu giữ một số hiện vật quý sau:
1. Bát hương;
2. Ngai
3. Chấp kích
4. Y môn
5. Câu đối
6. Nhang án
7. Bộ đao
8. Đèn thờ
9. Đỉnh
10. Đại tự
11. Tượng đức Thánh
12. Mâm mịch
13. Khám thờ
14. Sắc phong Thành Thái nguyên niên (1889)
15. Sắc phong Duy Tân tam niên (1909)
16. Sắc phong Khải Định cửu niên (1925)
17. Thần phả có niên đại Bảo Đại năm thứ 13 (1938)…1
1 . Có bản thống kê di vật chi tiết kèm theo.

HỘI:
 
PHẦN VII. CÁC HÌNH THỨC SINH HOẠT VĂN HÓA DÂN GIAN, LỄ

Tương truyền,  trước đây mỗi  dịp  làng  tổ chức  vào đám, tại  di tích  có tế lễ 7
 
ngày với các trò chơi như: tổ tôm, cờ người, chơi đu, hát chèo, leo cầu phao, chơi cướp cờ…
Hiện nay, tại di tích có các ngày lễ lớn sau:
- Ngày mồng 2 tháng 1: Tế khai Xuân
- Ngày 15 tháng 4: Lễ cầu mát
- Ngày 15 tháng 7: Lễ tán hạ
- Ngày 15 tháng 9: Tế lễ nhân ngày kỵ của đức Thánh
- Ngày 14 tháng 12: Lễ Mộc dục
Trong các ngày lễ như: tế khai Xuân, Lễ cầu mát, Lễ tán hạ…dân trong làng làm cỗ xôi thịt mang ra cúng thần tại đền.
Riêng ngày sinh và ngày kỵ của thánh, dân làng tổ chức tế lễ rất linh đình.
Ngày hôm sau là chính tế và tế tạ, từ sáng sớm, dân làng nghiêm trang khởi hành về đền, đi đầu là cờ lọng rồi tới phường bát âm, đến bảng văn trên đặt văn tế, tiếp đến là lễ vật, quan viên hành lễ và đoàn người nối nhau đi.
Khi đến đền, dân làng tập trung ở sân để ngồi thị lễ.
Ông chủ tế và đội tế vào đền dâng ba tuần rượu: tuần sơ, tuần á, tuần trung.
Mỗi tuần rượu kéo dài trogn khoảng 30 – 45 phút.
Sau khi ban lễ tế xong, dân làng lần lượt vào tế thánh.
PHẦN VIII. TÌNH TRẠNG BẢO QUẢN, PHƯƠNG ÁN PHÁT HUY TÁC DỤNG DI TÍCH
Theo các cụ trong Ban khánh tiết, tòa Tiền bái được xây dựng vào năm 1996. Thượng lương tòa Trung đường và tòa Hậu cung đều có chung một dòng chữ
Hán: “Hoàng triều Bảo Đại cửu niên tuế thứ Giáp Tuất thụ trụ thượng lương đại cát”
Tạm dịch: vào ngày lành tháng tốt, dưới triều vua Bảo Đại năm thứ 9 dựng thượng lương.
Như vậy, thông tin trên cho ta biết tòa Trung đường và tòa Hậu cung được khởi dựng vào thời Nguyễn (1934).
Trải qua năm tháng, do ảnh hưởng của thời tiết cùng với những biến động của lịch sử, di tích đã ít nhiều bị xuống cấp.
 
Những năm gần đây, được sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền, nhân dân địa phương và các nhà hảo tâm, di tích đã xây mới và sửa chữa nhiều hạng mục công trình, cụ thể:
Năm 1996, xây dựng tòa Tiền bái, tường hào bao quanh di tích. Năm 2002, xây Nghi môn đền, hồ bán nguyệt, lát gạch hoa.
Ngoài ra, những phần bị xuống cấp nhỏ trong di tích như: quét vôi, đảo ngói, sửa sân, thay rui, mè…cũng thường xuyên được sửa chữa theo đúng nguyên tắc, tôn trọng tính nguyên gốc của di tích.
Được sự quan tâm của Đảng ủy, UBND xã Khánh Mậu, Ban khánh tiết của đền được thành lập (1992). Hiện nay, Ban gồm 3 người, do cụ Lê Văn An, 74 tuổi làm Trưởng ban.
Ban khánh tiết có nhiệm vụ trông nom, kiến thiết di tích và duy trì tổ chức các hoạt động tín ngưỡng, sưu tầm các hiện vật liên quan tới di tích.
Thường xuyên ở đền có một cụ từ quét dọn, đèn nhang và đón tiếp nhân dân địa phương cũng như du khách thập phương đến chiêm bái.
PHẦN IX. GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH VÀ Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ
Trên cơ sở khảo sát thực tế và qua nghiên cứu các tài liệu có liên quan, chúng tôi nhận thấy di tích có các giá trị sau:
1. Đền Thánh Tứ là công trình còn nhiều đơn nguyên kiến trúc thời Nguyễn, mang phong cách kiến trúc dân tộc.
2. Đền còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: đồ thờ, câu đối, sắc phong, thần phả…Đó là những nguồn sử liệu quan trọng giúp ta nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của danh tướng Phạm Tử Nghi, về tình hình kinh tế xã hội của đất nước dưới vương triều Mạc.
3. Di tích là nơi thờ Phạm Tử Nghi, một vị tướng tài của triều Mạc, tương truyền ông đã có công giúp dân dựng làng, giữ nước. Việc thờ cúng ông thể hiện đạo lý tốt đẹp “ uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta ngàn đời chung đúc.
4. Di tích là nơi duy trì và diễn ra các hoạt động tín ngưỡng, đáp ứng nhu caaud tâm linh của nhân dân địa phương.
5. Hiện nay, những nơi thờ Phạm Tử Nghi ở Ninh Bình chủ yếu tập trung ở khu vực ven sông. Ngoài đền Thánh Tứ, chúng tôi thấy những di tích khác như: đền Kiến Ốc (xã Khánh Trung), đền Đức Hậu (xã Khánh Hồng), đền Đức Ông (xã Khánh Cường)… cùng thờ nhân vật này.
 
Như vậy, đền Thánh Tứ cùng với các di tích trên sẽ tạo thành cụm di tích về nơi thờ tự Phạm Tử Nghi
Xuất phát từ giá trị nhiều mặt của di tích, thể theo nguyện vọng của chính quyền và nhân dân địa phương. Ban quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Ninh Bình lập Hồ sơ khoa học, đề nghị Hội đồng khoa học xét duyệt trình UBND tỉnh Ninh Bình ra Quyết định xếp hạng di tích đền Thánh Tứ, thôn 9, xã Khánh Mậu, huyện Yên Khánh là di tích lịch sử .






  • Từ khóa :
BẢN ĐỒ TP NINH BÌNH

Tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập